Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
102517

Khu di tích lịch sử Lam Kinh - Những giá trị trường tồn (Bài 1): Lịch sử đầy thăng trầm

Ngày 27/09/2023 15:12:47

Khu di tích lịch sử Lam Kinh - Những giá trị trường tồn
Bài 1: Lịch sử đầy thăng trầm

- Miếu mạo công thần xen mái cỏ/ Lăng phần liệt thánh lẫn cây ngàn. Đó là hai câu thơ của Hiến sát Thanh Hóa Ngô Thì Sĩ khi chứng kiến tình cảnh Lam Kinh dần đi vào quên lãng

(khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII). Khu miếu điện uy nghi - biểu tượng cho quyền lực, uy vọng hoàng gia thời Lê Sơ - đã trải qua lịch sử tồn tại đầy thăng trầm, mới có được diện mạo như hậu thế đang được chiêm ngưỡng. 

Khu di tích lịch sử Lam Kinh - Những giá trị trường tồn (Bài 1): Lịch sử đầy thăng trầmBia Vĩnh Lăng ghi công đức của vua Lê Thái tổ. Ảnh: Khôi Nguyên

Mặc dù là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật lớn và đóng vai trò, ý nghĩa vô cùng đặc biệt về mặt tư tưởng, văn hóa, tâm linh đối với vương triều Hậu Lê; song quá trình ra đời khu miếu điện Lam Kinh lại không được ghi chép nhiều, hoặc không còn tìm được nhiều trong sử sách cũ. Sau khi Lê Lợi lên ngôi ở Đông Đô (Thăng Long), tháng 11, vua ngự về Tây Đô, bái yết sơn lăng, thưởng cho các tướng hiệu quân nhân theo hầu mỗi người thăng tước một bậc. Nếu là thượng trí tự, đại trí tự thì thăng tước 1 tư. Người có con cháu thay mình được phong hầu cùng người không có công lao thì không dự lệ này. (Đại Việt sử ký toàn thư).

Đến tháng 6-1430 “đổi Đông đô làm Đông Kinh, Tây Đô làm Tây Kinh. Tháng 8-1433, trước khi Lê Thái t mt, nhà vua đã v thăm Lam Sơn ln cui. Va v Lam Kinh - tên gi Lam Kinh ln đầu tiên được dùng để ch đất Lam Sơn lch s (theo nhà nghiên cu Nguyn Văn Ho trong cun Khu Di tích Lam Kinh). Năm 1433 vua Lê Thái tổ mất, được đưa về Lam Kinh an táng tại Vĩnh Lăng. Tháng 12 cùng năm các quan theo hu v Tây Kinh dng miếu đin Lam Sơn, tuy nhiên s cũ không ghi chép v quy mô các công trình được xây dng thi đim này. Tháng 4-1434, vua Lê Thái tông sai Hu bc x Lê Nh Lãm đến Lam Kinh dng miếu th Thái mu. Cũng trong năm này đin Lam Kinh cháy, nhưng đáng tiếc là cun s đồ s như Đại Vit s ký toàn thư cũng không ghi thêm bt k thông tin nào liên quan đến v ha hon.

Đến đời vua Lê Nhân tông, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Tháng 9, xung chiếu cho Thái úy Lê Kh đốc các cc bách tác làm miếu đin Lam Kinh (năm 1448); đến năm K T 1449 tháng 2, miếu đin Lam Kinh làm xong, sai Hàn lâm th độc Hoàng Thanh thay cho Nguyễn Lãm làm lễ tấu cáo. Năm Bính Tý 1456 ngày Đinh Mùi mng 8, vua ng v Lam Kinh, ngày Quý Su v đến Lam Kinh. Đêm y mưa đá. Ngày 15, vua thân đem các quan bái yết sơn lăng. Ch huy cho các quan coi lăng Lam Sơn rng: Phàm các vic đền th cần phải thành kính tinh khiết, như việc chặt cây, chặt tre kiếm lấy củi đóm. Tế tẩm miếu dùng 4 con trâu, đánh trống đồng, quân lính hò reo ứng theo. Về nhạc vũ thì múa nhạc Bình Ngô phá trn, văn thì múa nhc Chư hu lai triu... Ngày 21, ban yến cho các quan đi theo hầu, các quan nhậm chức ở ngoài và các quan trí sĩ ở hành điện Lam Kinh, thưởng tiền theo thứ bậc khác nhau. Ngày hôm sau, chỉ huy các đại thần bàn định đặt hiệu cho các miếu điện ở sơn lăng Lam Sơn, chính điện gọi là điện Quang Đức, điện Sùng Hiếu, hậu điện gọi là điện Diễn Khánh. Lại sai quan phủ Thanh Hóa làm tẩm cung thờ thái hoàng thái phi ở sau điện lăng Lam Sơn.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hảo, thì giới hạn Lam Kinh đến đâu, hiện tại chưa xác định được. Có điều chắc chắn phạm vi của Lam Kinh trong đó có hương Lam Sơn và thôn Dâm. Tháng 8-1467, vua Lê Thánh tông sai người đi khám đất công ở hương Lam Sơn và thôn Dâm. Vua ra chỉ dụ: Lam Kinh là đất căn bn làng vua, không ví như kinh sư khác được, mi ri bn thế gia hay làm trái lễ phép, coi thường pháp luật, chiếm lấy đất làm của mình, các thân vương, công chúa không có chỗ đất cắm dùi. Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng lấy lễ phép mà bảo trước..... Như vậy Lam Kinh bao gồm một vùng đất rộng lớn, có rừng núi, ruộng canh tác và làng bản, chứ không bó hẹp để chỉ một lớp tường thành. Lam Kinh không phải là đô thị. Gọi là "Kinh" nhằm thể hiện sự tôn vinh "đất căn bản làng vua". Trong 6 năm ở ngôi, hoàng đế Lê Lợi hai lần về thăm quê để "bái yết Sơn lăng" - lăng mộ các vị tổ của nhà vua. Tên gọi Sơn lăng được ghi nhiều lần trong các sử sách xưa, sau này khái niệm "Sơn lăng" còn bao gồm lăng mộ Lê Thái tổ và một số vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê, sau khi mất được chôn cất ở Lam Kinh.

Để tưởng nhớ tổ tiên, đặc biệt là công đức khai sáng cơ nghiệp của vua Lê Thái tổ, cứ vài ba năm, vua và các quan lại về Lam Kinh hành lễ. Từ thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVIII, triều đình luôn cắt cử chức quan cùng với một đội quân thường trực ở Lam Kinh để bảo vệ nghiêm cẩn khu miếu điện linh thiêng này. Các công trình xây dựng ở Lam Kinh để thờ cúng tổ tiên nhà Lê có những tên gọi như "Nhà thờ Sơn lăng", "Điện lăng Lam Sơn", "Miếu Điện Lam Sơn".  (Đại Việt sử ký toàn thư) có lẽ tập trung chủ yếu ở khu trung tâm" Lam Kinh nhà Lê ở phía Tây núi Lam Sơn, phía Bắc gối vào núi Dầu. Đầu thời Thuận Thiên lấy đất này làm Tây Kinh, cũng gọi là Lam Kinh, xây dựng cung điện trông ra sông, đằng sau hồ lớn, giống hồ Kim Ngưu, các khe núi đổ vào hồ này. Lại có khe nhỏ bắt nguồn từ hồ chảy qua trước điện, ôm lại như hình vòng cung, bắc cầu lợp ngói trên khe. Đi qua cầu tới cung điện. Sau khi nhà Lê mất, thì chỗ này vỡ lở gần hết chỉ còn mộ cũ (theo sách Vit S thông giám cương mc).

Hiến sát Thanh Hóa Ngô Thì Sĩ đã có bài thơ ca ngợi vẻ đẹp và giá trị của khu miếu điện Lam Kinh: Nht nht công cán đáo Lam Kinh/ Lch lch tin tung nhn bo kinh/ T đin sơn hà thiên thiết thng/ Vn niên lăng tm địa ch Kinh/ Ban ban phong vt nan đồ hi/ Chng chng uy thanh mc trc hình/ Ch min bi hi tăng cm khái/ Cu cung di chỉ thu dình đinh (đại ý: Nhân có dp đi công cán Lam Kinh, nhìn thy được du vết tin nhân, bn mt sông núi tươi đẹp, lăng tm đời đời linh thiêng, phong cnh khó lòng v được, uy linh cũng không th nào hình dung ni, trong lòng càng bi hi, xúc động trong niềm tự hào về quá khứ oai hùng của những con người làm nên lịch sử). Thế nhưng, trải qua hàng trăm năm tồn tại, với vô số biến thiên lịch sử, đặc biệt là từ khi nhà Lê đánh mất dần vai trò lịch sử, thì khu miếu điện cũng dần rơi vào quên lãng.

Từ triều vua Lê Uy Mục (năm 1505) đến hết thời đại nhà Hậu Lê (năm 1789), Lam Kinh không còn là nơi diễn ra các buổi tế lễ long trọng do vua và triều thần cử hành. Đặc biệt, từ cuối thế kỷ XVIII, triều Lê - Trịnh thối nát, đất nước lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, các cuộc nội chiến xảy ra khắp nơi. Sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Thanh do vua Quang Trung lãnh đạo giành thắng lợi; tiếp đến là cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với Nguyễn Ánh... Biến cố lịch sử, nhà Lê sụp đổ, các cuộc chiến tranh diễn ra triền miên đã khiến toàn bộ khu miếu điện Lam Kinh bị phá hủy nặng nề. Đồng thời, trong suốt một thời gian dài Lam Kinh trở thành phế tích, đúng như câu cảm thán của Ngô Thì Sĩ: Miếu mo công thn xen mái c/ Lăng phn lit thánh ln cây ngàn. Đến đầu thế kỷ XX, người dân Lam Sơn mới xây dựng một đền thờ nhỏ nằm ngay trên đất Lam Kinh để thờ vua Lê Thái tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai và Bạch Y Công chúa. Đồng thời, sang đầu triều Nguyễn, vua Gia Long Nguyễn Ánh cho dỡ miếu điện ở Lam Kinh và Đông Đô (lúc này chỉ là trấn thành) để lấy nguyên liệu xây dựng đền Bố Vệ (ở TP Thanh Hóa nay). Từ đó, việc tế lễ các vua, hoàng thái hậu và công thần nhà Lê cũng được chuyển về đền Bố Vệ.

Trải qua hàng chục năm kỳ công nghiên cứu và nhiều lần trùng tu, tôn tạo, khu miếu điện Lam Kinh mới có được diện mạo như hiện nay, để cho con dân đất Việt tìm về ngưỡng vọng, chiêm bái và tri ân công đức các bậc tiền nhân. Đồng thời cũng để thấy được trách nhiệm của hậu thế đối với việc gìn giữ, bảo vệ và phát huy giá trị di sản mà cha ông đã lấy máu xương để đắp đổi nên và trao truyền lại.

 

Nguồn: Baothanhhoa.vn

  

Khu di tích lịch sử Lam Kinh - Những giá trị trường tồn (Bài 1): Lịch sử đầy thăng trầm

Đăng lúc: 27/09/2023 15:12:47 (GMT+7)

Khu di tích lịch sử Lam Kinh - Những giá trị trường tồn
Bài 1: Lịch sử đầy thăng trầm

- Miếu mạo công thần xen mái cỏ/ Lăng phần liệt thánh lẫn cây ngàn. Đó là hai câu thơ của Hiến sát Thanh Hóa Ngô Thì Sĩ khi chứng kiến tình cảnh Lam Kinh dần đi vào quên lãng

(khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII). Khu miếu điện uy nghi - biểu tượng cho quyền lực, uy vọng hoàng gia thời Lê Sơ - đã trải qua lịch sử tồn tại đầy thăng trầm, mới có được diện mạo như hậu thế đang được chiêm ngưỡng. 

Khu di tích lịch sử Lam Kinh - Những giá trị trường tồn (Bài 1): Lịch sử đầy thăng trầmBia Vĩnh Lăng ghi công đức của vua Lê Thái tổ. Ảnh: Khôi Nguyên

Mặc dù là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật lớn và đóng vai trò, ý nghĩa vô cùng đặc biệt về mặt tư tưởng, văn hóa, tâm linh đối với vương triều Hậu Lê; song quá trình ra đời khu miếu điện Lam Kinh lại không được ghi chép nhiều, hoặc không còn tìm được nhiều trong sử sách cũ. Sau khi Lê Lợi lên ngôi ở Đông Đô (Thăng Long), tháng 11, vua ngự về Tây Đô, bái yết sơn lăng, thưởng cho các tướng hiệu quân nhân theo hầu mỗi người thăng tước một bậc. Nếu là thượng trí tự, đại trí tự thì thăng tước 1 tư. Người có con cháu thay mình được phong hầu cùng người không có công lao thì không dự lệ này. (Đại Việt sử ký toàn thư).

Đến tháng 6-1430 “đổi Đông đô làm Đông Kinh, Tây Đô làm Tây Kinh. Tháng 8-1433, trước khi Lê Thái t mt, nhà vua đã v thăm Lam Sơn ln cui. Va v Lam Kinh - tên gi Lam Kinh ln đầu tiên được dùng để ch đất Lam Sơn lch s (theo nhà nghiên cu Nguyn Văn Ho trong cun Khu Di tích Lam Kinh). Năm 1433 vua Lê Thái tổ mất, được đưa về Lam Kinh an táng tại Vĩnh Lăng. Tháng 12 cùng năm các quan theo hu v Tây Kinh dng miếu đin Lam Sơn, tuy nhiên s cũ không ghi chép v quy mô các công trình được xây dng thi đim này. Tháng 4-1434, vua Lê Thái tông sai Hu bc x Lê Nh Lãm đến Lam Kinh dng miếu th Thái mu. Cũng trong năm này đin Lam Kinh cháy, nhưng đáng tiếc là cun s đồ s như Đại Vit s ký toàn thư cũng không ghi thêm bt k thông tin nào liên quan đến v ha hon.

Đến đời vua Lê Nhân tông, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Tháng 9, xung chiếu cho Thái úy Lê Kh đốc các cc bách tác làm miếu đin Lam Kinh (năm 1448); đến năm K T 1449 tháng 2, miếu đin Lam Kinh làm xong, sai Hàn lâm th độc Hoàng Thanh thay cho Nguyễn Lãm làm lễ tấu cáo. Năm Bính Tý 1456 ngày Đinh Mùi mng 8, vua ng v Lam Kinh, ngày Quý Su v đến Lam Kinh. Đêm y mưa đá. Ngày 15, vua thân đem các quan bái yết sơn lăng. Ch huy cho các quan coi lăng Lam Sơn rng: Phàm các vic đền th cần phải thành kính tinh khiết, như việc chặt cây, chặt tre kiếm lấy củi đóm. Tế tẩm miếu dùng 4 con trâu, đánh trống đồng, quân lính hò reo ứng theo. Về nhạc vũ thì múa nhạc Bình Ngô phá trn, văn thì múa nhc Chư hu lai triu... Ngày 21, ban yến cho các quan đi theo hầu, các quan nhậm chức ở ngoài và các quan trí sĩ ở hành điện Lam Kinh, thưởng tiền theo thứ bậc khác nhau. Ngày hôm sau, chỉ huy các đại thần bàn định đặt hiệu cho các miếu điện ở sơn lăng Lam Sơn, chính điện gọi là điện Quang Đức, điện Sùng Hiếu, hậu điện gọi là điện Diễn Khánh. Lại sai quan phủ Thanh Hóa làm tẩm cung thờ thái hoàng thái phi ở sau điện lăng Lam Sơn.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hảo, thì giới hạn Lam Kinh đến đâu, hiện tại chưa xác định được. Có điều chắc chắn phạm vi của Lam Kinh trong đó có hương Lam Sơn và thôn Dâm. Tháng 8-1467, vua Lê Thánh tông sai người đi khám đất công ở hương Lam Sơn và thôn Dâm. Vua ra chỉ dụ: Lam Kinh là đất căn bn làng vua, không ví như kinh sư khác được, mi ri bn thế gia hay làm trái lễ phép, coi thường pháp luật, chiếm lấy đất làm của mình, các thân vương, công chúa không có chỗ đất cắm dùi. Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng lấy lễ phép mà bảo trước..... Như vậy Lam Kinh bao gồm một vùng đất rộng lớn, có rừng núi, ruộng canh tác và làng bản, chứ không bó hẹp để chỉ một lớp tường thành. Lam Kinh không phải là đô thị. Gọi là "Kinh" nhằm thể hiện sự tôn vinh "đất căn bản làng vua". Trong 6 năm ở ngôi, hoàng đế Lê Lợi hai lần về thăm quê để "bái yết Sơn lăng" - lăng mộ các vị tổ của nhà vua. Tên gọi Sơn lăng được ghi nhiều lần trong các sử sách xưa, sau này khái niệm "Sơn lăng" còn bao gồm lăng mộ Lê Thái tổ và một số vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê, sau khi mất được chôn cất ở Lam Kinh.

Để tưởng nhớ tổ tiên, đặc biệt là công đức khai sáng cơ nghiệp của vua Lê Thái tổ, cứ vài ba năm, vua và các quan lại về Lam Kinh hành lễ. Từ thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVIII, triều đình luôn cắt cử chức quan cùng với một đội quân thường trực ở Lam Kinh để bảo vệ nghiêm cẩn khu miếu điện linh thiêng này. Các công trình xây dựng ở Lam Kinh để thờ cúng tổ tiên nhà Lê có những tên gọi như "Nhà thờ Sơn lăng", "Điện lăng Lam Sơn", "Miếu Điện Lam Sơn".  (Đại Việt sử ký toàn thư) có lẽ tập trung chủ yếu ở khu trung tâm" Lam Kinh nhà Lê ở phía Tây núi Lam Sơn, phía Bắc gối vào núi Dầu. Đầu thời Thuận Thiên lấy đất này làm Tây Kinh, cũng gọi là Lam Kinh, xây dựng cung điện trông ra sông, đằng sau hồ lớn, giống hồ Kim Ngưu, các khe núi đổ vào hồ này. Lại có khe nhỏ bắt nguồn từ hồ chảy qua trước điện, ôm lại như hình vòng cung, bắc cầu lợp ngói trên khe. Đi qua cầu tới cung điện. Sau khi nhà Lê mất, thì chỗ này vỡ lở gần hết chỉ còn mộ cũ (theo sách Vit S thông giám cương mc).

Hiến sát Thanh Hóa Ngô Thì Sĩ đã có bài thơ ca ngợi vẻ đẹp và giá trị của khu miếu điện Lam Kinh: Nht nht công cán đáo Lam Kinh/ Lch lch tin tung nhn bo kinh/ T đin sơn hà thiên thiết thng/ Vn niên lăng tm địa ch Kinh/ Ban ban phong vt nan đồ hi/ Chng chng uy thanh mc trc hình/ Ch min bi hi tăng cm khái/ Cu cung di chỉ thu dình đinh (đại ý: Nhân có dp đi công cán Lam Kinh, nhìn thy được du vết tin nhân, bn mt sông núi tươi đẹp, lăng tm đời đời linh thiêng, phong cnh khó lòng v được, uy linh cũng không th nào hình dung ni, trong lòng càng bi hi, xúc động trong niềm tự hào về quá khứ oai hùng của những con người làm nên lịch sử). Thế nhưng, trải qua hàng trăm năm tồn tại, với vô số biến thiên lịch sử, đặc biệt là từ khi nhà Lê đánh mất dần vai trò lịch sử, thì khu miếu điện cũng dần rơi vào quên lãng.

Từ triều vua Lê Uy Mục (năm 1505) đến hết thời đại nhà Hậu Lê (năm 1789), Lam Kinh không còn là nơi diễn ra các buổi tế lễ long trọng do vua và triều thần cử hành. Đặc biệt, từ cuối thế kỷ XVIII, triều Lê - Trịnh thối nát, đất nước lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, các cuộc nội chiến xảy ra khắp nơi. Sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Thanh do vua Quang Trung lãnh đạo giành thắng lợi; tiếp đến là cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với Nguyễn Ánh... Biến cố lịch sử, nhà Lê sụp đổ, các cuộc chiến tranh diễn ra triền miên đã khiến toàn bộ khu miếu điện Lam Kinh bị phá hủy nặng nề. Đồng thời, trong suốt một thời gian dài Lam Kinh trở thành phế tích, đúng như câu cảm thán của Ngô Thì Sĩ: Miếu mo công thn xen mái c/ Lăng phn lit thánh ln cây ngàn. Đến đầu thế kỷ XX, người dân Lam Sơn mới xây dựng một đền thờ nhỏ nằm ngay trên đất Lam Kinh để thờ vua Lê Thái tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai và Bạch Y Công chúa. Đồng thời, sang đầu triều Nguyễn, vua Gia Long Nguyễn Ánh cho dỡ miếu điện ở Lam Kinh và Đông Đô (lúc này chỉ là trấn thành) để lấy nguyên liệu xây dựng đền Bố Vệ (ở TP Thanh Hóa nay). Từ đó, việc tế lễ các vua, hoàng thái hậu và công thần nhà Lê cũng được chuyển về đền Bố Vệ.

Trải qua hàng chục năm kỳ công nghiên cứu và nhiều lần trùng tu, tôn tạo, khu miếu điện Lam Kinh mới có được diện mạo như hiện nay, để cho con dân đất Việt tìm về ngưỡng vọng, chiêm bái và tri ân công đức các bậc tiền nhân. Đồng thời cũng để thấy được trách nhiệm của hậu thế đối với việc gìn giữ, bảo vệ và phát huy giá trị di sản mà cha ông đã lấy máu xương để đắp đổi nên và trao truyền lại.

 

Nguồn: Baothanhhoa.vn

  

Công khai giải quyết TTHC